Pair of Vintage Old School Fru
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!



CHƯƠNG 3
“Vậy hôm nay cậu và ông cha cố tốt bụng đã chuyện trò dài hơi gì trong giờ học thế?” Paul tò mò hỏi.

“Lễ tang của bà Gutierrez,” tôi đáp thành thật. Ừm, ít nhiều là thế. Tôi học được rằng có nói dối tên Paul cũng vô ích. Hắn có một khả năng kì lạ là tự mình tìm ra được sự thật.

Dĩ nhiên như thế không có nghĩa điều tôi nói với hắn là sự thật trăm phần trăm. Chỉ là tôi không cho rằng cần phải nói hết tất cả mọi chuyện với Paul Slater. Có vẻ như vậy thì an toàn hơn. Và nhất định lại càng an toàn hơn khi không để cho Paul hay chuyện Cha Dominic sắp đi San Francisco mà chưa biết khi nào mới về.

“Cậu không còn khó chịu về chuyện đó đấy chứ hả?” Paul hỏi. “Về bà già Gutierrez ấy mà? Số tiền đó sẽ được dành vào mục đích tốt, cậu biết đấy.”

“Ô, phải, tôi biết chứ,” tôi đáp. “Bữa tối ở quán Cliffside chắc cũng phải đến... bao nhiêu... trăm đô một món ấy nhỉ? Và tôi nghĩ chắc cậu cũng định thuê một con limo nữa chứ.”

Paul mỉm cười biếng nhác từ chỗ mấy cái gối hắn đang dựa vào. “Kelly kể với cậu rồi cơ à?” hắn hỏi.

“Có cơ hội một cái là cô ta kể ngay,” tôi đáp.

“Cô ta chẳng phải đợi lâu la gì cho lắm,” hắn nói.

“Cậu mời cô ta lúc nào? Tối qua à?”

“Phải.”

“Vậy là được mười hai tiếng,” tôi nói. “Cũng không tệ nếu xét rằng tám trong số mười hai tiếng đó có lẽ cô ta dành để ngủ.”

“Ôi, tôi thì chả tin lắm đâu,” Paul nói. “Đó là thời gian chúng hoạt động tốt nhất mà. Bọn yêu nữ ấy. Tôi cá Kelly chỉ cần khoảng một, hai tiếng mỗi đêm để nhắm mắt là tối đa.”

“Lãng mạn gớm.” Tôi lật một trang trong cuốn sách cũ rích đặt trên giường Paul, ngăn cách hai chúng tôi. “Ý tôi là chuyện cậu gọi nàng bồ cặp kè trong Dạ hội Mùa đông là yêu nữ ấy.”

“Ít ra thì cô ta muốn đi với tôi,” Paul nói, mặt không chút biểu cảm – trừ một bên lông mày đen sẫmao hơn bên kia một chút xíu. “Phải nói đó là một điều mới mẻ, khác với cái cách mọi thứ vẫn thường diễn ra ở đây.”

“Cậu đã nghe thấy tôi phàn nàn câu nào chưa?” tôi hỏi, lật một trang khác. Tôi lấy làm tự hào rằng mình vẫn còn đang giữ được thái độ cực kỳ thờ ơ về tất cả mọi chuyện – ít ra bề ngoài là thế. Còn bên trong dĩ nhiên lại là một chuyện hoàn toàn khác. Bởi lẽ, trong lòng tôi đang gào lên: Chuyện gì đang diễn ra thế? Tại sao cậu mời Kelly mà không phải là tôi? Nói thế chả phải tôi quan tâm gì đến buổi khiêu vũ ngu si đó đâu đấy, mà chỉ là, cậu đang chơi cái trò gì vậy hả, Paul Slater?

Tuy vậy, thật đáng ngạc nhiên là không có gì trong số những điều đó để lộ ra ngoài. Hay ít nhất là tôi thấy thế.

“Chỉ là tôi cần phải được báo trước vì kế hoạch của tôi đã lên lịch kín cả rồi,” tôi nói ra miệng như thế. “Làm sao cậu biết được, tôi có thể đã phải chi ra một khoản không nhỏ để mua váy thì sao.”

Một bên khoé miệng Paul nhếch lên. “Cậu đâu có mua,” Paul nói. “Mà cũng chẳng đi cơ mà.”

Tôi quay đi chỗ khác. Lắm khi thật khó có thể đáp lại cái nhìn của hắn, cái nhìn rất sắc, rất...

Xanh.

Một bàn tay rám nắng rắn rỏi đặt lên tay tôi, đè chặt những ngón tay tôi xuống trang sách tôi đang định lật giở qua. “Đúng trang đó đấy.” Paul lại chẳng có vẻ gì là gặp khó khăn trong việc nhìn vào mắt tôi cả (có lẽ là vì mắt tôi xanh lá cây và sâu sắc cứ như là... tảo biển ấy). Hắn nhìn vào gương mặt tôi không chút bối rối. “Đọc đi.”

Tôi nhìn xuống. Cuốn sách Paul đưa ra cho buổi “học làm cầu nối” lần này là cuốn sách cũ đến nỗi những trang giấy như muốn nát vụn ra dưới mấy ngón tay tôi khi tôi lật giở. Cuốn sách này lẽ ra phải nằm trong viện bảo tàng mới đúng, chứ không phải trong phòng của một tên con trai mười bảy tuổi.

Ấy thế mà cuối cùng nó lại nằm ở chính căn phòng đó đấy, được lôi ra từ trong đống sách của ông nội hắn – dù tôi nghĩ có lẽ Paul cũng chẳng biết là tôi để ý điều đó đâu. Nó có tên là Tử thư – Cuốn sách của Người chết.

Cái tiêu đề không phải là thứ duy nhất khiến người ta nhớ rằng cái gì cũng chỉ có thời của nó thôi. Cuốn sách có mùi như thể một con chuột hay con gì đó đã bị kẹp nát giữa những trang giấy vào cái thời nào đó cách đây chưa quá lâu, rồi dần dần thối rữa ra ở trong đấy vậy

“Nếu bản dịch vào năm 1924 là chính xác,” tôi đọc to lên, mừng thầm vì giọng mình không run như những ngón tay vẫn thế mỗi khi Paul chạm vào tôi, “thì tiềm năng của những người dịch chuyển không chỉ giới hạn trong việc nói chuyện với người chết và chuyển dịch tức thời giữa thế giới của chúng ta và thế giới bên kia, mà họ còn có khả năng du hành trong chiều thứ tư theo ý muốn.”

Tôi thừa nhận mình đọc mà chẳng cảm thấy gì nhiều nhặn cho lắm. Đã học cả ngày rồi lại còn phải đi “phụ đạo môn cầu nối” nữa, việc đó chả có gì vui vẻ dễ chịu hết. Ừ thì tuần có mỗi một buổi thôi, thế nhưng mà như vậy là đủ lắm rồi, bạn tin tôi đi. Ngôi nhà của Paul vẫn giữ nguyên vẻ đơn điệu như thế trong suốt mấy tháng tôi đến. Nếu có gì thay đổi thì đó là nơi này lại càng có vẻ quái dị đáng sợ hơn bao giờ hết...

... và cả ông nội tên Paul cũng thế, cái người tiếp tục theo kiểu “sống dở chết dở”, theo cách nói của chính tên Paul, trong một căn phòng cách phòng hắn mấy căn. Cái kiểu sống dở đó có vẻ như là bao gồm những việc cứ một tiếng đồng hồ lại có y tá ghé qua phòng, họ được thuê để chăm lo cho những lần ốm đau của ông cụ, và việc không lúc nào rời mắt khỏi Kênh Game Show. Thật tình, chẳng có gì lạ khi Paul tránh ông Slater – hay Tiến sỹ Slaski, theo như những gì ông tiến sỹ tốt bụng đã rỉ tai tiết lộ với tôi thì đó là tên thật của ông ta – như tránh bệnh dịch. Ông nội hắn cũng chẳng phải là người bạn thú vị gì cho lắm, kể cả khi không giả vờ ngơ ngơ ngẩn ngẩn do dùng thuốc đi nữa.

Tuy thế, sau màn trình bày chẳng có mấy cảm xúc của tôi thì Paul lại buông tay tôi ra và ngả người ra sau, trông cực kỳ hài lòng với bản thân. “Sao?” Lại một cái nhướn mày nữa.

“Sao cái gì?” tôi lật trang sách và chỉ thấy mỗi ảnh của một chữ tượng hình Ai Cập mà cuốn sách đang nhắc đến.

Nụ cười nửa miệng lúc trước vẫn đang đeo trên mặt Paul thì giờ biến mất. Gương mặt hắn vô cảm y như bức tường đằng sau lưng hắn vậy. “Vậy rốt cuộc cậu định chơi theo cách đó,” hắn nói.

Tôi không hiểu hắn đang nói gì. “Chơi cái gì?” tôi hỏi.

“Tôi có thể làm được đấy, Suze,” hắn nói. “Tìm hiểu được việc đó chẳng khó. Và khi tôi biết được rồi thì... đừng có trách tôi đã không giữ đúng thoả thuận giữa chúng ta.”

“Thoả thuận nào?”

Hàm Paul nghiến đanh lại. “Không giết anh bạn trai của cậu,” hắn nói đềuđều.

Tôi chỉ biết nhìn hắn chằm chằm, thực sự chết sững. Tôi không hiểu sao điều này lại xảy ra. Chúng tôi đang có một buổi chiều rất tuyệt vời cơ mà – ừ thì, thôi được, không phải tuyệt vời nhưng cũng bình thường ổn cả, thế rồi đột ngột hắn đe doạ sẽ giết bạn trai của tôi... hay đúng hơn là doạ sẽ không giết anh ấy. Chuyện gì thế này hả trời?

“Cậu – cậu đang nói gì vậy?” tôi lắp bắp. “Việc này thì có liên quan gì đến Jesse? Có phải... có phải vì chuyện buổi khiêu vũ không? Paul, nếu cậu mời thì tôi đã nhận lời rồi. Tôi không hiểu sao cậu quay ngoắt lại và mời Kelly mà thậm chí không thèm – ”

Nụ cười nửa miệng lại hiện ra, nhưng lần này Paul chỉ rướn người tới trước và gấp cuốn sách lại. Lớp bụi bốc lên từ những trang giấy xưa cũ gần như bay thẳng vào mặt tôi, nhưng tôi không nói gì. Thay vào đó, tôi chờ đợi lời đáp của hắn mà tim cứ thót lên tận cổ.

Tuy nhiên, cái số tôi xưa nay toàn phải chịu thất vọng, vì tất cả những gì hắn nói là: “Thôi bỏ đi,” thế rồi hắn hạ chân xuống đất và đứng lên. “Cậu đói không?”

“Paul.” Tôi đi theo hắn, đôi giày Stuart Weitzmans gõ cạch cạch rõ to trên sàn đá. “Có chuyện gì vậy?”

“Điều gì khiến cậu nghĩ là đang có chuyện?” hắn hỏi khi sải bước trên hành lang dài bóng lộn.

“Ôi giời, tôi không biết,” tôi nói, nỗi sợ khiến tôi ăn nói có phần gắt gỏng. “Câu doạ dẫm về Jesse mà cậu đã nói đêm hôm nọ. Rồi cậu không mời tôi đến Dạ tiệc Mùa đông. Giờ lại là chuyện này. Cậu đang có âm mưu gì đó.”

“Thế ư?” Paul ngước lên nhìn tôi khi hắn đi xuống cái cầu thang xoắn ốc, vào bếp. “Cậu thực sự nghĩ vậy?”

“Phải,” tôi nói. “Tôi chỉ chưa đoán ra đó là việc gì mà thôi.”

“Có biết lúc này đây cậu đang ăn nói theo kiểu như thế nào không?” Paul hỏi khi hắn mở cánh cửa tủ lạnh khổng lồ và nhòm vào trong.

“Không,” tôi đáp. “Thế nào?”

“Một cô bạn gái đang nổi cơn ghen.”

Tôi suýt nữa thì tắc thở. “Dưa Bở nhà trồng được to gớm nhỉ?”

Hắn tìm được một lon Coke và mở ra. “Được đấy,” hắn đáp lại câu nhận xét của t. “Không đúng. Phải nó là tôi thích câu đó. Biết đâu một ngày nào đó tôi lại lôi ra dùng.”

“Paul.” Tôi nhìn hắn chằm chằm, cổ họng khô khốc, tim dộng thình thình trong ngực. “Cậu đang âm mưu làm điều gì vậy? Tôi nói nghiêm chỉnh đấy.”

“Nói nghiêm chỉnh ấy hả?” Hắn uống một hơi soda dài. Tôi không thể không thấy da cổ hắn rám nắng đến thế nào khi đứng nhìn hắn uống. “Tôi đang đặt cược vào nhiều cửa.”

“Điều đó nghĩa là sao?”

“Có nghĩa là,” hắn nói, đóng cánh cửa tủ lạnh lại rồi đứng dựa lưng vào đó, “tôi bắt đầu thấy thích cuộc sống ở đây. Thật lạ, nhưng đúng là như thế. Tôi chưa từng nghĩ mình là kiểu người hợp với vai trò đội trưởng đội tennis. Chúa biết, ở trường cũ của tôi” – hắn làm thêm một ngụm soda thật dài nữa – “tôi chẳng tham gia những việc đó. Nói cho đúng thì tôi bắt đầu hoà mình vào cái trường trung học này. Tôi muốn đi dự Dạ hội Mùa đông. Vấn đề là ở chỗ, tôi nghĩ chắc cậu sẽ chẳng muốn quanh quẩn bên tôi nữa đâu, sau khi tôi... ừm, sau khi tôi làm cái việc tôi đang dự tính.”

Hắn đã đóng tủ lạnh lại rồi, thế nên nó không thể là nguyên nhân gây ra cơn lạnh buốt đột ngột chạy dọc sống lưng tôi. Chắc chắn hắn đã thấy tôi rùng mình, vì hắn nhe răng cười và nói: “Đừng lo, Susie. Rồi cuối cùng cậu cũng sẽ tha thứ cho tôi thôi. Sẽ đến lúc cậu nhận ra rằng như thế là tốt nh– ”

Hắn không nói nốt được câu đó. Bởi vì tôi tiến tới, hất văng lon Coke khỏi tay hắn. Lon nước rơi đánh cạch xuống cái bồn rửa bằng thép không gỉ. Paul cúi nhìn những ngón tay trống rỗng, có phần ngạc nhiên như thể hắn không tài nào hiểu nổi lon nước đã biến đâu mất.

“Tôi không biết cậu đang âm mưu cái gì, nhưng nghe cho rõ đây: Nếu như có bất cứ chuyện gì xảy ra với anh ấy,” tôi rít lên, tiếng tôi chẳng to hơn tiếng soda xì xì chảy ra từ lon nước trong bồn rửa, nhưng cứng rắn hơn thế nhiều, “bất cứ chuyện gì, thì tôi sẽ khiến cậu phải hối tiếc vì đã sinh ra trên đời này. Rõ chưa?”

Vẻ ngạc nhiên trên mặt hắn nhăn lại thành cái cười nhe răng rất khó chịu. “Điều đó không có trong thoả thuận giữa chúng ta. Tôi chỉ nói là tôi sẽ không – ”

“Bất cứ chuyện gì,” tôi nói. “Và cấm gọi tôi là Susie.”

Tim tôi đang đập thình thình trong ngực, to đến nỗi chắc chắn hắn phải nghe được, nhưng có điều hắn không thấy là tôi đang sợ hãi hơn là tức giận....

Mà cũng có thể hắn thấy thật, vì môi hắn giãn ra thành một nụ cười – vẫn là cái nụ cười đã khiến cho nửa số con gái trong trường mê hắn điên cuồng.

“Đừng lo, Suze,” hắn nói. “Thế này nhé, việc tôi đang dự tính với Jesse ấy à? Những việc đó còn nhân đạo hơn nhiều so với những gì cậu sẽ làm đối với tôi.”

“Tôi – ”

Paul chỉ lắc đầu. “Đừng xúc phạm tôi bằng cách vờ như cậu không hiểu ý tôi.”

Tôi cóc cần phải vờ vịt. Tôi không hiểu hắn đang nói gì hết. Tuy nhiên, tôi không có cơ hội bảo cho hắn biết điều đó, vì đúng lúc ấy cảnh cửa mở ra và chúng tôi nghe thấy tiếng ai đó nói: “Xin chào, có ai không?”

Đó là Tiến sỹ Slaski cùng với người y tá, họ quay về sau một trong những lần hẹn khám bệnh lâu lắc. Người y tá đã lên tiếng chào. Tiến sỹ Slaski – hay Slater, như Paul gọi thế – chẳng bao giờ chào hỏi. Ít nhất là ông ta chỉ nói khi chung quanh có mình tôi thôi.

“Chào,” Paul nói, đi vào phòng khách và cúi nhìn người ông gắn chặt với chiếc xe lăn. “Tình hình thế nào rồi?”

“Ổn cả,” người y tá nói, mỉm cười. “Phải không, cụ Slater?”

Ông nội Paul chẳng nói gì. Đầu ông ta gục xuống ngực như thể đang ngủ. Chỉ có điều là không phải thế. Ông ta tỉnh táo chả kém gì tôi đâu. Bên trong cái vỏ ngoài có vẻ rệu rã và yếu ớt đó là một trí tuệ sáng láng, minh mẫn. Tôi vẫn không hiểu vì sao ông ta lại muốn che giấu điều đó. Còn có rất nhiều điều ở những người nhà Slater mà tôi không hiểu được.

“Bạn cậu ở lại ăn tối chứ, Paul?” người y tá vui vẻ hỏi.

“Vâng,” Paul nói cùng lúc với tôi đáp: “Không.”

Tôi không đáp lại cái nhìn của hắn khi thêm vào: “Cậu biết tôi không ở lại được mà.”

Ít nhất thì điều đó là thật. Ở nhà tôi, giờ ăn là giờ gia đình đoàn tụ. Cứ thử để lỡ một trong mấy bữa tối hoành tráng của dượng tôi xem, bạn sẽ phải nghe cằn nhằn đến tết Marốc.

“Được thôi,” Paul nói qua hàm răng rõ là nghiến lại. “Tôi sẽ đưa cậu về.”

Tôi không phản đối. Tôi muốn về lắm lắm

Lẽ ra chuyến đi xe về nhà hẳn phải rất thú vị. Carmel là một trong những nơi đẹp nhất trên đời này, và nhà của ông nội Paul lại nằm ngay trên biển. Mặt trời đang lặn, bầu trời như rực cháy, tiếng sóng nhịp nhàng vỗ vào những tảng đá bên dưới kia. Lại còn Paul, hắn chả phải loại xấu mã gì, cũng không lái một cái xe ô tô cũ mà là một con BMW mui trần, cái xe chẳng may tôi thấy mình hợp hết sức với mái tóc nâu sẫm, làn da trắng và gu lựa chọn giày dép không chê vào đâu được.

Nhưng sự căng thẳng bên trong chiếc xe thì bạn có thể dùng dao mà cắt ra thành miếng được ấy. Chúng tôi lái xe trong im lặng hoàn toàn cho đến lúc Paul cuối cùng cũng đỗ lại ở số 99 Đường Pine Crest, trước ngôi nhà cũ từ thời Victoria trên đồi Carmel mà mẹ và dượng tôi đã mua cách đây hơn một năm nhưng đến giờ vẫn còn chưa sửa xong. Ngôi nhà được xây từ tận cuối thế kỷ – thế kỷ 19 ạ, không phải 20 – nên cần phải tu sửa lại nhiều lắm....

Nhưng cho dù có lắp bao nhiêu đèn đóm sáng trưng đi nữa, việc đó cũng chẳng xoá đi được quá khứ nhuốm đầy bạo lực của nơi này, hoặc là một sự thực rằng cách đây vài tháng người ta đã đào được hài cốt của bạn trai tôi chôn ở sân sau. Tôi vẫn không thể nào đặt chân ra đó mà không cảm thấy nôn nao.

Đúng lúc tôi sắp sửa ra khỏi xe mà không nói năng gì thì Paul vươn ra, đặt tay lên cánh tay tôi. “Suze,” hắn nói, và khi quay lại nhìn, tôi thấy đôi mắt xanh của hắn thoáng buồn. “Nghe này. Chúng ta tạm hoà hoãn một thời gian được không?”

Tôi chớp mắt nhìn hắn. Hắn đùa chắc? Lúc trước hắn doạ yểm trừ bạn trai tôi; ăn cắp tiền của người đã đến nhờ hắn giúp; rồi không thèm mời tôi dự dạ tiệc, tiện thể làm tôi mất mặt với đứa con gái nổi nhất trường. Giờ hắn lại muốn chơi trò hoà hoãn ư?

“Quên đi,” tôi nói khi thu nhặt sách vở.

“Thôi nào, Suze,” hắn nói, khoe ra với tôi nụ cười dễ khiến người khác mềm lòng. “Cậu biết tôi đâu phải loại độc ác. Ừm, nói chung là thế. Với lại, tôi thì làm gì được anh Jesse của cậu nào? Anh ta có Cha D bảo vệ rồi, đúng chưa?”

Không hẳn. Bây giờ thì không. Nhưng Paul không biết điều đó. Chưa biết.

“Tôi xin lỗi về chuyện với Kelly,” hắn nói. “Nhưng cậu đâu có muốn đi cùng tôi. Sao lại trách tôi vì muốn đưa một người... thực sự thích tôi đi dự tiệc?”

Có thể đó là do nụ cười. Có thể là do cái cách hắn chớp đôi mắt xanh kia. Tôi không biết tại sao, nhưngt nhiên tôi thấy mình mềm lòng trước hắn.

“Vậy còn chuyện nhà Gutierrez?” tôi hỏi. “Cậu sẽ trả lại số tiền đó chứ?”

“Uh,” Paul nói. “Ừm, không. Tôi không thể trả lại được.”

“Paul, cậu có thể. Tôi sẽ không nói với ai đâu, xin thề....”

“Không phải thế. Tôi không trả lại được bởi vì... tôi... ờ... cần đến nó.”

“Để làm gì?”

Paul nhe răng cười. “Rồi cậu sẽ biết.”

Tôi mở cửa xe và bước ra ngoài, gót giày ấn sâu xuống lớp lá thông rụng đầy trên cỏ. “Chào cậu, Paul,” tôi nói, đóng sầm cửa xe sau lưng, cắt ngang câu nói “Không, chờ đã Suze!” của hắn.

Tôi quay người, tiến về phía ngôi nhà. Dượng tôi, Andy, đã nhóm lửa ở một trong mấy cái lò sưởi trong nhà. Không khí khô ráo của buổi tối ngập tràn mùi gỗ cháy rất đượm, hoà lẫn với một mùi hương khác nữa.... Mùi cà ri. Tối nay ăn món gà tandoori. Sao tôi lại quên được nhỉ?

Tôi nghe thấy tiếng Paul khởi động xe và lái đi đằng sau lưng. Tôi không ngoái lại. Tôi tiến đến những bậc thang dẫn lên cửa trước, bước lên những ô vuông ánh sáng hắt lên hiên nhà từ những khung cửa sổ phòng khách. Tôi mở cửa và vào trong, cất tiếng gọi: “Con về rồi ạ!”

Chỉ có điều, tôi không còn cảm thấy mình trở về với mái ấm. Bởi lẽ, đã từ lâu với tôi gia đình mang một ý nghĩa khác rồi.

Và anh ấy không còn sống ở đây nữa.







Không bấm vùng phía dưới kẻo mất tiền nhé!